Giới thiệu

Nghề thêu Xuân Nẻo



 

Nghề thêu là một nghề cổ truyền thống  của dân tộc, phục vụ nhu cầu của vua chúa, quan lại, đình chùa như thêu màn trướng, trang phục, y môn đại tự, cờ quạt, võng lọng, hài hia… và nhất là đồ tế tự, trang trí bằng vải lụa trong các gia đình quyền quý. Thêu chỉ màu, thêu kim tuyến là một trong những truyền thống lâu đời, tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị hiện còn lưu giữ trong các bảo tàng và một số đình chùa. Sản phẩm của thợ thêu từ những thế kỷ trước đã trở thành một mặt hàng phổ biến trong nước và gần đây là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Đầu thế kỷ 20 do nhu cầu của thị trường, một số thợ thêu tách khỏi những mặt hàng truyền thống, chuyển sang thêu đăng ten, thêu hàng trắng ( chỉ thêu và vải nền đều một màu trắng) là những mặt hàng phương Tây ưa dùng. Nói đến thợ thêu người ta liên tưởng đến những người con gái mặt hoa da phấn, có đôi tay mềm dẻo tài hoa, chăm chỉ luồn kim trên những tấm vải màu tươi thắm trong các hiệu thêu ở thành phố và thêu thùa đã trở thành một trong những yếu tố tạo nên tứ đức của người phụ nữ thời xưa, mấy ai nghĩ đến những người thợ thêu tài năng lại là giới mày râu, xuất thân từ một tầng lớp nông dân nghèo ở một làng quê xa đô thị, nhưng thực tế đã diễn ra như vậy.

Xuân Nẻo- quê hương những người thợ thêu, nguyên là một xã của tổng Nguyễn Xá, tồi Mỹ xá thời Nguyễn thuộc huyện Tứ Kỳ, nay là một thôn của xã Hưng Đạo, huyện Tứ Lộc, ở bên đường 191, cách thị xã Hải Dương 12km về phía Nam, dân số từ 1.000 khẩu năm 1900 lên tới 2.350 năm 1983. Diện tích bình quân chưa đạt 500m2/ người. Xuân Nẻo là một làng hiếu học, cử nhân, tú tài chữ Nho không hiếm, có người đỗ Tiến sĩ thời Nguyễn sơ (1). Phía nam giáp Xuân Nẻo là làng Ô Mễ, nơi có lăng mộ đệ tam cung tần Nguyễn Thị Ngọc Chén, sống vào cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17 (2). Đây còn là quê hương anh hùng Vương Đình Thế, người có nhiều thành tích chăn nuôi lợn tập thể. Cuối tháng 11-1951 một trận công đồn của bộ đội và du kích địa phương đã diễn ra tại Xuân Nẻo- Ô Mễ chiến thắng to lớn, mở đầu thời kỳ giành lại đất đai và căn cứ kháng chiến của lực lượng vũ trang Hải Dương

Bảy mươi năm trước, bình quân ruộng đất theo đầu người ở Xuân Nẻo chưa đến nỗi chật hẹp, nhưng phần lớn ruộng màu mỡ nằm trong tay địa chủ nên đời sống của nhân dân gặp khó khăn. Nghề làm bún, một nghề phụ bên cạnh nghề nông tuy có cải thiện một phần nào cho những gia đình nghèo, song không thể thu hút lao động cho cả xã, nhiều người phải rời bỏ quê hương tìm việc làm kiếm sông, trong đó có ông Nguyễn Văn Thuật. Vốn xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, ông Thuật khi còn là một thanh niên đã chịu đựng mọi gian nan vất vả để theo học nghề thêu, nghề mà anh ưa thích. Buổi đầu anh Thuật sống nhờ một bà dì họ ở TX Hải Dương, ngày đi học, tối bán hàng rong để lấy tiền ăn học. Thấy anh là một người thông minh, miệt mài học nghề, một trong hai chủ hiệu thêu đăng ten, tại phố Ô Môn ( nay là phố Phạm Hồng Thái ) nhận anh như người trong gia đình để vừa học vừa làm. Với nghề thêu, anh là một học trò, trong quan hệ gia đình anh là một người con nuôi và cũng là một người ở. Mọi gian khổ anh Thuật đã vượt qua và mau chóng trở thành một thợ thêu có tay nghề vững, đủ khả năng thực hiện những mẫu thêu phức tạp cho khách trong và ngoài nước. Năm 1928, anh Thuật mang nghề thêu về quê dậy cho những thân nhân. Lớp thứ nhất, rồi lớp thứ hai, ngoài cô em gái ra còn lại đều là thanh thiếu niên và mỗi lớp không quá 3-4 người. Lớp học trò đầu tiên không bao lâu sau trở thành những thợ thêu có tài và là người hướng dẫn cho nhiều lớp thợ kế tiếp. Nghề thêu từ một gia đình rồi lan ra xóm làng. Mười năm sau kể từ khi anh Thuật mang nghề thêu về quê, Xuân Nẻo đã trở thành làng có nghề thêu với 40-50 gia đình có khung thêu, nhiều người ra phố nhận việc, rồi nghệ nhân xuất hiện.. Năm 1940, anh Thuật được bằng cửu phẩm qua một bức thêu chân dung và trở thành một ông chủ thầu khoán các mặt hàng thêu của những cửa hiệu buôn bán lớn ở Hải Phòng. Từ đó nghề thêu ở Xuân Nẻo có tiếng tăm và được xác lập.

Thêu là một nghề làm việc trong nhà, không phải thực hiện những động tác nặng nhọc, thu nhập cũng khá, hơn nữa bản thân nghề thêu cũng là một mỹ nghệ, một nghề mang tính chất nghệ thuật nên thợ thêu biết và có điều kiện trang phục thanh nhã, sạch đẹp, mùa nào quần áo ấy. Mỗi khi có dịp ra phố nhận hoặc trả hàng, các anh thợ thêu ngày xưa cũng phải ăn diện lắm: Quần trúc bâu, áo the, khăn xếp, đi giày Chi Long da láng, đến khi ra phố hành nghề thì diện đặc kiểu tân thời.

Mối quan hệ của những người thợ thêu Xuân Nẻo trước Cách mạng tháng Tám là quan hệ thân tộc, láng giềng. Buổi đầu mọi việc đều do ông Thuật đảm nhiệm, từ nhận hàng, nhận mẫu, nguyên liệu, định giá, thu trả hàng và thanh toán, học trò và thợ bạn chỉ việc thêu thùa sao cho đúng mẫu, xong đúng hạn trả hàng. Để việc nhận và trả hàng thuận tiện, thợ Xuân Nẻo ra phố hành nghề dưới sự bảo trợ cảu ông Thuật. Qua nhiều năm làm việc cần cù, chịu khó học hỏi, một số thợ có tay nghề khá, thành thạo các kiểu thêu, có khả năng sáng tạo những mẫu mới, thoát ly khỏi sự bảo trợ của thầy, nhận hàng trực tiếp của các hãng buôn hoặc hàng vặt phục vụ người tiêu dùng. Vào những năm 1938-1942, nghề thêu của Xuân Nẻo phát đạt. Mặt hàng chính lúc đó là các loại chăn, vải trải bàn, trải giường, phủ ghế, vỏ gối, khăn phủ khay, đĩa… hầu hết là hàng trắng phục vụ cho nhu cầu của bọn thực dân, công chức, thị dân giàu co và xuất khẩu qua tay tư bản thương nghiệp.

Kháng chiến bùng nổ, nghề thêu của Xuân Nẻo đình đón, thợ thêu bỏ kim chỉ cầm súng đánh giặc, một số ít tản cư vào thành phố theo đuổi nghề nghiệp. Sau ngày miền Bắc giải phóng, nghề thêu được phục hồi. Năm 1959, một tổ thêu gồm 7 thợ kỹ thuật được thanh lập, trực thuộc HTX sản xuất nông nghiệp. Cùng thời gian đó, một HTX thêu ở TX Hải Dương cũng ra đời, nghệ nhân hầu hết là người Xuân Nẻo ra thành phố làm nghề thêu đã nhiều năm. Do Công ty xuất khẩu tổ chức, thợ thêu Xuân Nẻo đã được đi Hà Nội thêu hàng mẫu được khách hàng trong và ngoài nước nhận đặt hàng. Từ dó thợ thêu Xuân Nẻo tại hai khu vực thị xã và nguyên quán hoạt động sôi nổi phục vụ nhu cầu của địa phương và xuất khẩu. Mười năm sau, trong hoàn cảnh chiến tranh, nghề thêu vẫn phát triển, nghệ nhân của Xuân Nẻo trở thành thầy giáo của nhiều lớp thợ thêu trong và ngoài tỉnh. Đến năm 1982, chỉ trong tỉnh Hải Hưng, đã có trên một vạn thợ thêu đủ khả năng làm hàng xuất khẩu mà nguồn gốc do thợ Xuân Nẻo đào tạo, trong đó xã Hưng Đạo là cơ sở lớn nhất, có gần 1.300 thợ thêu thành thạo, lập thành một đội sản xuất gồm 3 tổ thuộc 3 thôn: Xuân Nẻo, Ô Mễ, Lạc Dục. Năm 1985 doanh thu 1,8 triệu trong số 16.3 triệu đồng thu về nghề thêu của tỉnh. Hàng thêu của Xuân Nẻo có mặt trên thị trường nhiều nước như Liên Xô, Úc, Bỉ, Pháp… và được khách hàng các nước ưa chuộng.

Muốn trở thành một nghệ nhân của nghề thêu phải khổ luyện lâu dài và có khả năng về mỹ thuật, còn muốn trở thành một thợ thêu thì học tập cũng không lâu, chịu khó tập luyện 3-4 tháng là đã có thể thêu những mặt hàng đơn giản. ở tuổi thiếu niên, nam hay nữ đều có thể học và trở thành thợ thêu. Những lớp học đầu tiên của Xuân Nẻo hầu hết học trò là nam giới ở độ tuổi thanh thiếu niên, có người làm nghề từ 12 tuổi. Lớp học có thầy, có trò nhưng không có sách vở, thầy hướng dẫn trò qua các việc làm cụ thể, tuy vậy cũng rất nghiêm ngặt, học trò phải thao tác chính xác từng động tác. Vì thế mà sau này họ trở thành những thợ thêu có tài. Vài chục năm gần đây, việc dậy và học đã khoa học hơn, có chương trình, giáo án, trường lớp đào tạo trong mọt thời gian nhất định, nhưng căn bản vẫn phải hướng dẫn qua thực hành.

Đầu tiên là học cách tháo lắp khung, căng vải nền trên khung sao cho căng, phẳng như mặt trống, không một đường nhăn nhúm, rồi tập tay kim cho thành thạo, mềm dẻo. Tập cầm kim cho đúng cách, xỏ lên xỏ xuống đúng điểm quy định, kéo chỉ theo phương thẳng đứng, nếu xiên xẹo sẽ nặng tay và dễ đâm vào người bên cạnh. Tay kim thuần thục bắt đầu thêu vặn, bó lẳn, bó chéo, bạt ngang, bạt chéo, cuối cùng là bổ mảng.

Đường vặn là những mũi thêu so le tiếp nhau tạo thành đừng hoặc vòng lại thành mảng kín. Bó lẳn ngang là thêu những mũi ngang liên tiếp nhau trên một đường hẹp. Bạt ngang và bạt chéo tương tự như bó lẳn ngang và chéo nhưng trên những nét vẽ bên này sang bên kia chỉ cần một mũi thêu, ví dụ như thêu các chữ in. Những mảng thêu lớn như cánh hoa, sông núi, hình chim thú không thể thêu một mũi từ bên này sang bên kia, dù chỉ một màu, thì buộc phải thêu nhiều mũi kế tiếp nhau, thêu như vậy gọi là bổ mảng. Trong một mảng nếu có phần đậm nhạt, sáng tối khác nhau thì phải luôn luôn thay chỉ pha màu. Gọi là pha màu nhưng kỳ thực là chọn những mà chỉ thích hợp để thể hiện trung thành mẫu thêu hay ý định sáng tác của nghệ nhân. Cái khó của người thợ thêu là phải vẽ tranh bằng mũi kim với những màu chỉ nhuộm sẵn, không thể vẽ bằng bút lông và mực màu pha theo ý như họa sĩ, ấy thế mà bết bao chân dung, phong cảnh núi sông, làng mạc Việt Nam đã thể hiện lên sinh động qua đường chỉ, mũi kim của những người thợ thêu Xuân Nẻo.

Nguyên liệu chính của nghề thêu chỉ có hai loại: vải nền và chỉ thêu. Vải nền chủ yếu do người đặt hàng mang đến, nó có thể là vải lụa trắng hay sa tanh các màu hoặc khăn áo may sẵn. Chỉ thêu gồm nhiều màu, mỗi màu nhiều số, số càng cao thì màu càng đậm.

Trang bị của người thợ thêu chủ yếu là bộ óc thẩm mĩ, đôi tay thao tác chính xác, đôi mắt tinh tường để chọn pha màu theo ý muốn với tinh thần làm việc dẻo đai để có thể sáng tác các mẫu thêu sinh động hoặc thực hiện những đề tài phức tạp kéo dài hàng tháng như phong cảnh và chân dung. Còn trang bị vật chất thì rất đơn giản: vài cái kim, hai cái đê, một cái khung, một số chỉ thêu là đã có thể hành nghề.

Kim thêu: không khác những kim khâu thông thường làm bằng thép tốt, sắc ngọt, trên nhỏ và dài, dễ xâu chỉ và kéo nhẹ tay.

Đê: là vật đẩy kim khi thêu, làm bằng đồng, đeo vào đầu ngón tay giữa bên phải và trái, rộng trên 1cm gồm nhiều cỡ phù hợp với độ lớn của ngón tay từng người. Thợ may và thợ thêu đều phải dùng đê.

Khung thêu: là công cụ quan trọng của nghề thêu. Khung có hai suốt dọc, làm bằng gỗ tốt, thông thường làm bằng gỗ lim, tròn nhẵn, đường kính thiết diện từ 5-6cm dài từ 1-3m tùy theo yêu cầu của mặt hàng thường xuyên phải làm. Mỗi gia đình thợ thêu có từ 2-3 khung thêu các kích cỡ khác nhau để thêu các mẫu hàng kích thước khác nhau, mỗi đầu suốt dọc có hai lỗ hình chữ nhật (2*5cm) vuông góc với nhau để trà nhành ngang và điều chỉnh độ căng của mặt vải khi thêu. Cùng chiều với một trong hai lỗ nhành, xoi một rãnh hẹp sâu rộng 1cm để tra thép thêu gọi là rãnh mõ. Khung có hai suốt ngang gọi là cái nhành. Nhành làm bằng gỗ hoặc tre đặc hình then bài, dài 60-70 cách mạng, luồn vừa lỗ khung, có mộng và đanh hãm. Một đầu nhành dùi nhiều lỗ liên tiếp nhau để điều chỉnh chiều rộng và độ căng của mặt vải thêu, khi đẩy suốt dọc đến một cỡ vừa ý thì chốt một rãnh tre vào lỗ phía trong để hãm lại. Mỗi khung có 4 thép tròn bằng tre hay gỗ đút lọt rãnh mõ để khâu văng mép vải thẳng đều bốn phía, rồi lấy dây vải ghì vào khung cho căng. Chiều rộng của khung chỉ dao động từ 50-60cm, vừa tầm tay của thợ, nếu vải thêu dài hơn chiều rộng khung thì khung văng hai đầu vải vào thép, ấn chìm vào rãnh mõ suốt dọc, cuộn lại chỉ để một khoảng vừa tầm tay thêu. Thêu xong phần nào cuộn lại phần đấy, thêu tiếp phần còn lại. Làm như vậy có thể thêu được những mặt hàng dài chục mét, có chiều rông bằng chiều dài của khung. Mỗi khung thêu đặt lên hai niễng nhỏ, cao 40-45cm, kê trên giường hay nền nhà, ở nơi có đủ ánh sáng. Thợ thêu ngồi duỗi chân trên chiếu làm việc miệt mài ngày này qua ngày khác.

 


 

Nhận được hàng, người thợ thêu căng vải nền lên khung bằng cái thép, sao cho mặt vải phẳng, căng đều bốn phía, phần chưa thêu đến thì cuộn lại vào suốt dọc cho gọn, in hoặc vẽ mẫu thêu lên vải. In mẫu bằng cách trổ lỗ rắc bột trắng, nếu nền màu đậm hoặc in qua giấy than mẫu in và vẽ trên vải chỉ là những đường viền, đường cơ bản, còn màu sắc đậm nhạt, sáng tối phải căn cứ vào mẫu vẽ trên giấy mà mỗi người thợ thêu có thể thực hiện đề tài từ điểm nào tùy ý, nhưng trong một bức họa thì buộc phải thực hiện phần xa trước, gần sau, nếu thêu hàng mầu thì phải luôn luôn thay chỉ, pha màu cho phù hợp với yêu cầu của bản vẽ. Người thợ thêu nhớ số chỉ sắc độ các màu chỉ như người thợ sắp chữ nhớ các ô chữ cái, có như vậy mới đỡ mất thì giờ khi chọn chỉ. Căn cứ từng đường nét cụ thể mà người thợ thực hiện các phương pháp thêu thích hợp như bó lẳn, bạt, bổ mảng. Cùng một mẫu thêu nhưng mỗi người thể hiện muôn hình muôn vẻ, đó là một đặc điểm của nghề thêu. Thêu hàng trắng đòi hỏi kỹ thuật tinh tế hơn bởi vì nền vải và chỉ thêu đều là màu trắng, làm thế nào để các họa tiết nổi hình khối bằng các đường chỉ chứ không phải bằng màu sắc là việc làm không đơn giản.
tứ quý - cúc tứ quý tứ quý tứ quý

Thêu những mặt hàng nhỏ, hẹp, mỏng, rão, co giãn, bùng nhùng, không thể văng vào khung, phải dùng một loại vải mỏng căng lên khung làm đệm. Đặt vật phải thêu lên khung, lấy danh ghim; ghim lại các góc xuống vải đệm cho phẳng, thêu chồng lên vải đệm, thêu xong cắt phần vải đệm dính vào mảng thêu cho gọn. Không những mặt hàng mỏng, rão mới phải dùng vải đệm mà thêu vải trải giường và nhiều mặt hàng khác cũng phải có vải đệm để giữ cho vải nền bền đẹp hơn. Nếu thêm đồng loạt những vật tương tự với các loại vải không co giãn thì khoét trên vải đệm một khoảng trống vừa bằng mảng hoa văn phải thêu, ghim vật phải thêu lên vải đệm, lựa cho phần vải thêu đúng khoảng trống, như vậy tiết kiệm được vải đệm và tháo gỡ nhanh. Với mặt hàng này, cũng có thể làm hai khung tròn nhỏ lồng khít vào nhau, ép phần vải phải thêu vào khung như mặt trống con rồi tiến hành thêu theo phương pháp thông thường.
cửu ngư quần tụ

Đề tài thêu trước cách mạng là : Sen, hồng, nho, sóc, ngư, tiều, canh, độc, tứ linh, tứ quý, bát tiên hội ẩm…. (3)

Đề tài hiện nay được thay đổi luôn bao gồm nhiều loại hoa, phong cảnh, danh lam cổ tích, những công trình văn hóa lớn của Việt Nam. Nghệ nhân Xuân Nẻo đã thêu thành công nhiều chân dung và những bức tranh hoành tráng đạt tiêu chuẩn nghệ thuật cao, sáng tạo nhiều mẫu thêu đạt yêu cầu thẩm mĩ. Một mẫu thêu có thể  đạt yêu cầu về mặt mỹ thuật nhưng không đạt yêu cầu về thương nghiệp, bởi lẽ phải thực hiện nhiều mũi thêu, tốn công, giá thành cao, tiêu thụ khó. Nếu tận dụng được tối đa màu của vải nền, rút gọn đến mức tối thiểu những đường nét phải thêu mà vẫn đạt yêu cầu thẩm mĩ là một mẫu thêu ưu việt.

Nghề thêu mang lại nguồn thu nhập lớn cho Xuân Nẻo và xã Hưng Đạo, chiếm 35% thu nhập của HTX, góp phần quan trọng cải thiện đời sống của nhân dân. Làm thay đổi bộ mặt làng xã và làm đẹp chính những con người Xuân Nẻo. Con em của Xuân Nẻo dễ tìm thấy việc làm tại quê hương, không phải băn khoăn tìm nghề nghiệp ở nơi đâu xa lạ. Nay đến Xuân Nẻo đâu đâu cũng thấy những gương mặt tươi sáng, chăm chú trên khung thêu với mọi màu  rực rỡ. Qua bàn tay của người thợ thêu, cánh đồng bát ngát, em bé chăn trâu thổi sáo, thả diều, bụi tre ngà khoe cành lá duyên dáng, mái đình cong cong, cây đa tỏa bóng, đàn vịt đùa trên hồ sen, những cánh buồm căng gió vượt sóng, các hình ảnh Văn Miếu, Chùa Một Cột, Hồ Gươm, chợ Bến Thành… dần dần hiện lên tươi mát, sinh động. Những người thợ thêu gửi gắm tình cảm và tài năng của mình qua những sản phẩm để gửi đến những xử sở xa lạ của các nước trên thế giới  hình ảnh quê hương, đất nước và con người Việt Nam

Nghề thêu Xuân Nẻo cũng như của Hải Hưng đang sung sức và phát triển tốt đẹp, nếu  được phát triển và sản xuất hợp lý, có những hợp đồng dài hạn, cung ứng nguyên liệu đầy đủ và những mẫu thêu khá hơn, chắc chắn sẽ mang lại một nguồn thu nhập lớn cho địa phương, góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động đáng kể, đồng thời sẽ tạo ra những tác phẩm thêu xuất sắc, làm phong phú cho các loại hình nghệ thuật của địa phương.

1-11-1986

Theo Sách:Nghề cổ truyền tập II- Sở Khoa học và Công nghệ- Bảo tàng Hải Hưng 1995

——

(1): Vũ Huy Hựu đỗ đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa Bình Tuất thời Minh Mệnh ( 1826), được bổ nhiệm làm quốc tử giám tế tửu, rồi đốc học tỉnh An Giang

(2): Nguyễn Thị Ngọc Chén: hiệu là Diệu Trì, quê tại Bình Lãng, con gái bà Vương Thị Đũa, người Ô Mễ, là đệ tam cung tần thời Trịnh Tùng ( 1570-1623). Năm 1610, Ngọc Chén bỏ tiền xây dựng hậu đường chùa Sùng Minh ( Ô Mễ), khi chết chôn tại quê mẹ. Lăng mộ Ngọc Chén xây kín bằng hợp chất vôi, cát, mật, ngày 10-12-1980, mộ được khai quật,, di hài và đồ tùy táng được bảo tồn khá nguyên vẹn.

(3) ngư: Người đánh cá, Tiều: Người tiều phu đón củi, Ganh: người làm ruộng, Độc: người đọc sách, tri thức phong kiến, Bát tiên: Tám vị tiên trong truyện cổ Trung Quốc: Hán Trung Ly, Trương Quả Lão, Hàn Tương Tử, Lý Thiết Quài, Tào Quốc Cửu, Lữ Đông tân, Hà Tiên Cơ, Lan Thái Hoa.

Ngư, Tiều, Canh, Độc, Bát tiên hội ẩm ( cùng ngồi uống nước), Bát tiên quá hải ( qua biển) đều là đề tài vẽ hoặc thêu cổ điển.